Dân tộc thiểu số – Tintucngoisao.com https://tintucngoisao.com in tức nóng hổi, sự kiện đình đám, scandal gây sốc và những thông tin độc quyền về các ngôi sao hàng đầu. Wed, 24 Sep 2025 14:14:47 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/tintucngoisao-ico.svg Dân tộc thiểu số – Tintucngoisao.com https://tintucngoisao.com 32 32 Mở lớp học xóa mù chữ cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở vùng cao https://tintucngoisao.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/ Wed, 24 Sep 2025 14:14:45 +0000 https://tintucngoisao.com/mo-lop-hoc-xoa-mu-chu-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-o-vung-cao/

Ở các xã vùng cao như Bao La, Tân Pheo, Đà Bắc, những lớp học đặc biệt được tổ chức sau mỗi mùa gặt, thu hút sự tham gia của hàng chục phụ nữ dân tộc Mường, Dao, Thái. Họ ngồi bên nhau, chăm chú nghe giảng về từng nét chữ đầu tiên. Đây là những lớp “giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ”, một phần trong nỗ lực xóa mù chữ và nâng cao năng lực học tập cộng đồng do Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hòa Bình phối hợp tổ chức.

Từ năm 2020 đến nay, đã có 6 lớp như vậy được mở, với 125 học viên, 100% là nữ và là người dân tộc thiểu số. Họ đến lớp không vì điểm số, không vì bằng cấp mà vì một điều giản dị: Biết đọc tên mình, biết viết đơn xin vay vốn, hiểu những dòng chữ in trên bao thuốc trừ sâu hay đơn khám bệnh.

Ở cái tuổi ngũ tuần, bà Hà Thị Nhung, người dân tộc Thái ở xã Bao La, đã bắt đầu một hành trình mới – học chữ. Trước kia, mỗi lần đi trạm y tế hay nhận hỗ trợ, bà đều phải nhờ người khác điền giúp giấy tờ. Có khi, cán bộ bảo ký tên, bà chỉ biết cười trừ, đưa ngón tay ra lăn dấu. “Tôi xấu hổ lắm. Đến tên mình cũng không viết nổi”, bà Nhung chia sẻ.

Cơ hội đến khi Trung tâm học tập cộng đồng xã Bao La mở lớp học sau biết chữ vào buổi tối, tranh thủ khi người dân đã thu hoạch xong mùa vụ. Lớp học nhỏ, chỉ có một chiếc bàn gỗ dài và những cuốn vở đã ngả màu theo tay học viên. Nhưng với bà Nhung, đó là thế giới khác – nơi bà bắt đầu nhận diện lại chính mình qua từng con chữ.

Tính đến nay, các xã khu vực Hòa Bình cũ đạt tỷ lệ nữ biết chữ là 99,81%, trong đó nữ dân tộc thiểu số và miền núi đạt 99,64% – vượt xa mục tiêu 93% được đặt ra trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030. Đây không chỉ là một thành tích trong lĩnh vực giáo dục mà còn là kết quả của quá trình kiên trì xóa mù chữ, giáo dục tiếp tục sau biết chữ và xây dựng mô hình học tập cộng đồng bền vững.

Tuy nhiên, biết chữ không đơn thuần là đích đến mà là điểm khởi đầu cho một hành trình dài hơi – hành trình trao quyền, xây dựng năng lực tự chủ cho người phụ nữ. “Khi người phụ nữ biết đọc, biết viết, họ có thể tiếp cận thông tin, hiểu quyền lợi, chủ động trong kinh tế gia đình và chăm sóc con cái. Quan trọng hơn, họ trở thành người truyền cảm hứng học tập trong bản làng, nơi mà việc cầm bút, đi học với phụ nữ từng là điều xa lạ, thậm chí bị cho là ‘không cần thiết'” – Ông Trần Văn An – Trưởng Phòng Giáo dục thường xuyên, Sở Giáo dục và Đào tạo chia sẻ.

Dù kết quả đạt được rất đáng ghi nhận, nhưng thực tế ở các xã vùng cao vẫn đặt ra không ít thách thức. Ở một số địa bàn đặc biệt khó khăn, việc duy trì kết quả sau xóa mù chữ chưa thật sự ổn định. Nhiều phụ nữ lớn tuổi quanh năm bám nương, ít có điều kiện tiếp cận thông tin vẫn đang đối mặt nguy cơ tái mù.

Những bước đi căn cơ đang dần được triển khai để đảm bảo “biết chữ” không chỉ là thành tích mà phải là nền móng cho sự phát triển. Từ năm 2025, Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình được giao nhiệm vụ đưa các nội dung về giới, bình đẳng giới và sức khỏe sinh sản vào chương trình đào tạo giáo viên. Cùng với đó, các trung tâm học tập cộng đồng ở cơ sở cũng đang được mở rộng vai trò. Từ chỗ chỉ dạy chữ sang hướng dẫn kỹ năng sản xuất, sử dụng công nghệ số, khởi nghiệp tại chỗ… Đây là bước đi cho thấy chương trình xoá mù, nâng cao năng lực cộng đồng không chỉ truyền đạt con chữ, mà còn giúp thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ một chương trình xóa mù chữ ban đầu, Phú Thọ đang chuyển mình từng bước để làm cho “học tập suốt đời” trở thành hiện thực ở cả những bản làng xa nhất. Và ở đó, mỗi người phụ nữ biết chữ, dù chỉ một câu, một dòng, cũng đang viết nên phần tương lai tươi sáng hơn của chính mình.

]]>
Sơn La: Nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số với chính sách an sinh xã hội https://tintucngoisao.com/son-la-nang-cao-doi-song-dong-bao-dan-toc-thieu-so-voi-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi/ Thu, 04 Sep 2025 07:05:02 +0000 https://tintucngoisao.com/son-la-nang-cao-doi-song-dong-bao-dan-toc-thieu-so-voi-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi/

Trong 6 tháng đầu năm 2025, tỉnh Sơn La đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác dân tộc, đặc biệt là trong việc cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số. Theo báo cáo của Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Sơn La, đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh đã ổn định và có nhiều chuyển biến tích cực trong các mặt từ nhà ở, hạ tầng, y tế đến giáo dục và an ninh trật tự.

Công tác chăm lo sức khỏe đồng bào dân tộc được quan tâm. Ảnh: Văn Ngọc
Công tác chăm lo sức khỏe đồng bào dân tộc được quan tâm. Ảnh: Văn Ngọc

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong 6 tháng đầu năm là việc triển khai quyết liệt chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh xóa nhà tạm, nhà dột nát. Toàn tỉnh Sơn La đã hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho trên 3.000 hộ gia đình, trong đó có trên 2.600 hộ được xây mới và trên 400 hộ được sửa chữa. Điều này đã mang lại mái ấm kiên cố cho hàng ngàn gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, chấm dứt tình trạng sống trong những căn nhà dột nát, tạm bợ.

Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục được đầu tư xây dựng và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương, sản xuất và sinh hoạt của người dân. Công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc cũng được chú trọng, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của cộng đồng.

Chất lượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang từng bước nâng lên, quy mô trường, lớp học ngày càng mở rộng, đảm bảo quyền được học tập của con em đồng bào. Trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe, nhiều chuyển biến tích cực đã được ghi nhận. Đặc biệt, 100% người dân thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng khó khăn và người dân sống ở vùng đặc biệt khó khăn đã được cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế.

Tình hình an ninh, trật tự xã hội vùng dân tộc thiểu số cơ bản ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội. Những kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm 2025 là minh chứng rõ nét cho sự quan tâm, đầu tư và định hướng đúng đắn của tỉnh Sơn La trong công tác dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và bền vững hơn cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số khởi nghiệp từ các sản phẩm đặc trưng địa phương https://tintucngoisao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-khoi-nghiep-tu-cac-san-pham-dac-trung-dia-phuong/ Sat, 30 Aug 2025 20:34:12 +0000 https://tintucngoisao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-khoi-nghiep-tu-cac-san-pham-dac-trung-dia-phuong/

Trong 8 năm qua, phong trào phụ nữ khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo (KNĐMST) tại tỉnh Cao Bằng đã diễn ra sôi nổi và rộng khắp tại các xã, phường. Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) tỉnh đã đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai và đẩy mạnh thực hiện Đề án ‘Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp’ giai đoạn 2017-2025. Thông qua chương trình này, hàng nghìn lượt phụ nữ trên địa bàn tỉnh đã có cơ hội tiếp cận với kiến thức và nguồn vốn cần thiết để khởi nghiệp.

Hội LHPN tỉnh đã tổ chức 850 lớp tập huấn khởi sự kinh doanh và truyền thông về KNĐMST, thu hút gần 60.000 lượt hội viên tham gia. Đặc biệt, hội đã tổ chức các diễn đàn và ngày hội phụ nữ khởi nghiệp, mời các diễn giả và chuyên gia cấp quốc gia và quốc tế đến chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức. Qua đó, chị em phụ nữ đã có cơ hội tiếp cận với các dự án, ý tưởng và sản phẩm khoa học công nghệ hiện đại, cũng như được hỗ trợ sản xuất và bán sản phẩm khởi nghiệp.

Ngoài ra, Hội LHPN tỉnh cũng đã phối hợp với các ngân hàng và tổ chức quốc tế để hỗ trợ hơn 20 tỷ đồng vốn vay và tài trợ khởi nghiệp cho phụ nữ. Qua chương trình này, trên 100 ý tưởng khởi nghiệp đã được hỗ trợ, trong đó có trên 70 mô hình sản xuất kinh doanh hoạt động hiệu quả, tạo việc làm ổn định cho nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số.

Việc triển khai Đề án ‘Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp’ đã đem lại sự thay đổi căn bản về nhận thức và hành động của phụ nữ cơ sở. Nhiều chị em đã dám nghĩ và dám làm, sản xuất với quy mô và chất lượng cao, và nỗ lực xây dựng thương hiệu và uy tín cho sản phẩm của mình.

Các xã, phường đã khơi dậy tiềm năng và thế mạnh của địa phương để khuyến khích chị em phụ nữ xây dựng sản phẩm thế mạnh địa phương. Nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã được hỗ trợ kỹ thuật và vốn để sản xuất miến dong, thạch đen, và các sản phẩm OCOP chất lượng cao.

Qua 8 năm triển khai Đề án, Hội LHPN tỉnh đã tập huấn kiến thức KNĐMST cho hàng nghìn lượt phụ nữ cơ sở. Từ đó, nhiều chị em từng mặc cảm nghèo đói, thiếu tự tin đã thay đổi tư duy ‘làm nhỏ, bán lẻ’ dám chọn lợi thế địa phương để xây dựng sản phẩm cho nhiều mô hình KNĐMST, lập kế hoạch tài chính, tìm kiếm đối tác, đưa sản phẩm ra thị trường, tự tin bước trên hành trình làm giàu bằng chính đôi tay, khối óc và sự bền bỉ của mình.

Đề án ‘Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp’ đã góp phần phát triển kinh tế – xã hội địa phương và tạo điều kiện cho chị em phụ nữ cơ sở tiếp cận với các nguồn lực và dịch vụ hỗ trợ. Đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp phụ nữ Cao Bằng có thể phát triển kinh tế và cải thiện đời sống.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://tintucngoisao.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Tue, 19 Aug 2025 07:35:12 +0000 https://tintucngoisao.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Thái Nguyên – một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam – đã ghi nhận nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với việc triển khai nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế. Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số. Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế… Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện.

Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng. Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam Bộ https://tintucngoisao.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 10 Aug 2025 12:51:03 +0000 https://tintucngoisao.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một biểu tượng bất tử của sự kiên trung và hy sinh

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ, từng bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm, có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình. Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh.

Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên.

Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’.

]]>
Lâm Đồng: Bảo tồn văn hóa M’Nông gắn với du lịch bền vững https://tintucngoisao.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/ Sun, 10 Aug 2025 00:51:03 +0000 https://tintucngoisao.com/lam-dong-bao-ton-van-hoa-mnong-gan-voi-du-lich-ben-vung/

TS. Bùi Thị Hoa, Phó Phân viện trưởng phụ trách Phân viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch miền Nam, đã đưa ra nhận định rằng sự thay đổi trong phương thức sản xuất và quá trình hội nhập văn hóa đương đại đang tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa của người M’Nông. Điều này làm nên sự cần thiết của việc kiểm kê, số hóa và truyền dạy để lưu giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của họ.

Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST
Các buổi tập huấn chuyên sâu, làm việc trực tiếp với cộng đồng. Ảnh: VICAST

Người M’Nông sở hữu một kho tàng văn hóa phong phú, với những phong tục tập quán được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, vùng đồng bào dân tộc M’Nông đang đứng trước nhiều tác động của đời sống kinh tế – xã hội, làm thay đổi căn bản đời sống vật chất và nguy cơ mai một các giá trị văn hóa truyền thống.

Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST
Mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với phát triển du lịch. Ảnh: VICAST

Để giải quyết vấn đề này, mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người M’Nông gắn với du lịch đã được triển khai tại xã biên giới Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng. Mục tiêu của mô hình là đánh thức niềm tự hào và biến di sản thành tài sản hướng tới phát triển bền vững. Dự án nằm trong khuôn khổ dự án 06 ‘Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch’ thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2024.

Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST
Biến di sản thành tài sản, gắn kết du lịch với phát triển kinh tế. Ảnh: VICAST

Mô hình đã được ra mắt vào ngày 28/6 vừa qua và đã tổ chức truyền dạy cồng chiêng, múa, ẩm thực truyền thống, dệt thổ cẩm, đan lát và quy trình làm rượu cần tại cộng đồng bon Bu N’Drung. Các buổi tập huấn chuyên sâu với sự tham gia của các chuyên gia về di sản văn hóa các dân tộc, kỹ năng thực hiện bảo tồn và phát triển văn hóa trên địa bàn đã giúp ‘đánh thức’ khả năng trình diễn nghệ thuật dân gian, phát triển du lịch bằng cách ‘biến di sản thành tài sản’, tạo sinh kế cho cộng đồng một cách bền vững.

Mô hình đã được bàn giao cho chính quyền xã Tuy Đức mới để tiếp tục vận hành và phát huy. Dự kiến, mô hình này sẽ tạo liên kết gắn với các điểm du lịch – tài nguyên tự nhiên và nhân văn trên địa bàn, cũng như kết nối với các tour-tuyến giới thiệu Nhà văn hóa cộng đồng, không gian trưng bày ‘Hội tụ sắc màu văn hóa truyền thống M’Nông’ và không gian nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng, dân ca, dân vũ; cùng trải nghiệm ẩm thực ‘hương vị rừng, hương vị suối’… để trở thành điểm đến hấp dẫn.

Qua đó, mô hình này không chỉ gắn kết du lịch với phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho địa phương, mà còn nâng cao ý thức của người dân về vốn giá trị truyền thống, bảo tồn các giá trị văn hóa M’Nông, và tăng cường sự kết nối cộng đồng.

]]>
Phụ nữ dân tộc thiểu số làm giàu từ măng tre nhờ áp dụng kỹ thuật tiên tiến https://tintucngoisao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lam-giau-tu-mang-tre-nho-ap-dung-ky-thuat-tien-tien/ Mon, 04 Aug 2025 07:39:33 +0000 https://tintucngoisao.com/phu-nu-dan-toc-thieu-so-lam-giau-tu-mang-tre-nho-ap-dung-ky-thuat-tien-tien/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo.

Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm. Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu. Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>
Vốn đầu tư công cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi khó hấp thụ https://tintucngoisao.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-kho-hap-thu/ Mon, 21 Jul 2025 01:38:40 +0000 https://tintucngoisao.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui-kho-hap-thu/

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ năm 2021-2025 (Chương trình 1719) đã được triển khai với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa vùng đồng bào DTTS&MN và cả nước.

Theo Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng và Ban chỉ đạo đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công. Nhờ đó, kết quả giải ngân đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm ngoái, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương đạt 83% kế hoạch, cao hơn nhiều so với năm 2022 chỉ đạt 25,6%.

Trong giai đoạn 2022-2025, tổng vốn ngân sách Trung ương giao thực hiện Chương trình 1719 là khoảng 89,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm 49,1 nghìn tỷ vốn đầu tư phát triển và gần 40,6 nghìn tỷ vốn sự nghiệp. Tính đến nay, kết quả giải ngân vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ thực hiện chương trình giai đoạn 2022-2024 đạt xấp xỉ 48 nghìn tỷ, tương đương 72,6% kế hoạch.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn một số vướng mắc và khó khăn trong triển khai chương trình. Cụ thể, đối tượng thụ hưởng một số chính sách hỗ trợ đầu tư từ Chương trình 1719 có xu hướng thu hẹp so với nhu cầu vốn của giai đoạn 2021-2025. Quy định áp dụng các tiêu chí số hộ nghèo, hộ cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn… được xác định từ năm 2020, 2021 để áp dụng phân bổ vốn cho cả giai đoạn 2022-2025 đã không còn phù hợp với nhu cầu vốn thực tế.

Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc liên quan tới quy định đối tượng thuộc các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới không tiếp tục được hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia. Mức hỗ trợ thực hiện một số nội dung còn thấp, chưa thu hút, khuyến khích các đối tượng tham gia. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số địa phương còn bất cập, chưa sát thực tế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn.

Nhìn chung, Chương trình 1719 đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua để đảm bảo mục tiêu của chương trình.

]]>